Chúng ta đã trải qua bốn mươi bảy năm từ khi cứ địa cuối của một nền Văn-
hiến có gần năm ngàn năm tuổi đã mất. Nhưng những ơn ích của nền Văn Hiến đó được thể hiện qua văn hoá vẫn còn bàng bạc trong lòng rất nhiều người trong nước cũng như ở hải ngoại cho dù nhà cầm quyền đã dùng mọi cách để xóa đi.
Từ năm 43, sau khi nhị vị Trưng Vương tuẩn tiết và đất Lĩnh Nam lại mất vào
tay giặc Đông Hán, có rất nhiều người cảm thấy thế giặc quá mạnh, không thể nào chống lại được, thôi đành chấp nhận thân phận nô lệ. Chấp nhận kiếp sống lưu đày trên chính quê hương mình và coi đó là số phần không thay đổi được. Nhưng cũng có những người khác tin rằng mỗi người đều có trách nhiệm với vận nước, và gia tài văn hóa mà tiền nhân để lại quá đủ cho hậu thế học hỏi để giữ nước và dựng nước. Đức Ngô Quyền đã chứng minh điều đó khi đánh tan quân Nam Hán ở trận Bạch Đằng năm vào cuối năm 938, lập lại nền tự chủ của dân tộc.
Cụ Phan Bội Châu đã gọi Đức Ngô Quyền là vị Tổ Trung Hưng của nước
Việt. Điều này muốn nói lên sự nghiệp của Đức Ngô Quyền là tinh hoa văn hoá phục hoạt vi diệu của nền văn hóa Việt.
Tinh hoa văn hóa đó không mai một sau khi Đức Ngô Quyền dành lại được
nền tự chủ cho dân tộc, nó còn âm vang mạnh mẽ sau gần 500 năm khi Đức
Nguyễn Trãi viết Bình Ngô Đại Cáo đã mở đầu bằng một tuyên ngôn văn hoá:
“… Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo, Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu…”, khi dành lại tự chủ cho dân tộc đối với giặc Minh phương Bắc.
Và năm 1789 khi Đức Quang Trung tuyên đọc Hịch Xuất Quân: “Đánh cho để dài tóc, Đánh cho để đen răng, Đánh cho nó chích luân bất phản, Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.” đối với giặc Mãn Thanh.
Văn hóa và lịch sữ Việt, nhất là cổ sử, đã bị giặc chiếm hữu, xóa bỏ và cạo
sửa quá nhiều, nhưng huyền sữ Việt vẫn tinh tuyền, là những kinh vô tự, những sách ước với gậy thần xóa không được, sửa không xong. Vì gia tài văn hóa đó năm trong long người. Một khi tâm thành, ý chính sẽ nhận ra sự huyền diệu của nó.
Ở đây, xin được tóm tắc truyện Thần Núi Tản Viên: “Thần xưa kia nguyên là
một đứa con bị bỏ rơi giữa rừng được một người tiều phu gặp đem về nuôi, đặt tên là Kỳ Mạng. Kỳ Mạng trở thành tiều phu, nhờ không đốn cây đại thụ để sống qua ngày nên được thần Thái Bạch tặng cho một cây gậy thần, từ đó đời sống khá hơn và giúp được nhiều người. Sau đó, Kỳ Mạng lại dùng gậy thần cứu một con rắn bị trẻ con đập chết.
Vài hôm sau có người đến tạ ơn, xưng là Tiểu Long Hầu và mời Kỳ Mạng
xuống chơi thuỷ phủ. Khi rời thủy phủ về Kỳ Mạng được Long Quân cho quyển sách ước, có ba trang gồm kim, mộc, hoả bằng da cá, ngoài bọc vỏ rùa, Long Quân giữ lại trang thủy.
Kỳ Mạng muốn thử xem linh nghiệm thể nào, đặt tay vào trang hỏa mà khấn
tức thì sấm sét nổi lên rung chuyển cả bầu trời. Kỳ Mạng mừng quá, lại đặt tay lên trang mộc ước thấy một rừng cây đi. Tức thì cây trước mặt bỗng tiến bước như một đạo quân. Kỳ Mạng gấp sách lại, thấy mình có đầy uy quyền và sức mạnh khó người sánh kịp.
Từ đó Kỳ Mạng lang thang đó đây giúp người. Cuối cùng chán cảnh trần tục,
Kỳ Mạng lên núi Tản Viên ở luôn đấy. Với sách ước đã dựng nên cung điện giữa chốn rừng núi hoang vu. Từ đó có tiếng đồn núi Tản Viên do một vị thần pháp thuật thần thông cai quản.” (Nguồn Văn Học).
Đã hơn 46 năm trôi qua, đã có nhiều người tiên phong trong việc phục hoạt
tinh hoa văn hóa Việt, mong tìm lại sách ước với gậy thần hầu mang lại ơn ích cho đồng bào. Nhưng có người tìm sách ước với gậy thần ở trời Tây hoặc phương Bắc nên không bao giờ linh nghiệm để mang lại hạnh phúc cho đồng bào.
Nếu định nghĩa Văn Hiến là những người bình thường sống cho văn hóa thì
chúng ta cần rất nhiều văn hiến để xứng đáng là Văn Hiến Chi Bang, thì điều ước đầu tiên bây giờ có lẽ là cùng chung vai góp sức phục hoạt và phát huy một nền văn hóa đầy ơn ích cho dân tộc đã được minh chứng qua lịch sữ gần năm ngàn năm qua.
Khi người Nhật có thể vận dụng được tinh thần võ sĩ đạo để xây dựng được
một đất nước phú cường trong một thời gian ngắn, thì người Việt cũng có thể dùng tinh thần văn hiến để sớm mang lại an lạc và tự chủ cho đồng bào.
Chúng ta, những người của hiện tại, không dám có tham vọng làm lịch sữ,
nhưng bất cứ những gì chúng ta làm hôm nay, kể cả không làm gì hết, lịch sữ cũng sẽ ghi lại và hậu thế sẽ phán xét.
Trần Nhân An
(Mùa Giỗ Tổ 2022)